Google - Languages

Xu hướng lớn trong giám sát kỹ thuật số toàn cầu

Bài viết này sẽ giới thiệu cho độc giả những phát triển mới nhất, trong đó gồm cả các đổi mới quan trọng như mạng giám sát không dây IP, phân tích Video (Video Analytics), Nhân trắc học (Biometrics), tích hợp với điều khiển vào ra (Access Control) và các hệ thống khác.

Tri thức về các xu hướng này sẽ giúp việc ra quyết định dễ dàng hơn, khi bạn đang tìm cách nâng cao giá trị kinh doanh về chất lượng và hiệu quả bằng ứng các hệ thống video giám sát.

Xu hướng 1: IP Camera là tương lai
Video giám sát đang được nhanh chóng sử dụng lan tràn khắp nơi. Theo nghiên cứu gần đây của BBC thì cứ 14 người dân của Vương quốc Anh ứng với một Camera giám sát. Nhân dân ở Luân đôn mỗi ngày có thể gặp Camera đến 300 lần.
Các nơi khác trên thế giới cũng đang theo kịp. Nhiều nơi đang hưởng các lợi ích từ chọn được con đường tắt để phát triển về số lượng và chất lượng của giám sát kỹ thuật số bằng Công nghệ video giám sát IP. Một nghiên cứu thị trường vừa được công bố gần đây của IMS Research cho thấy chuyển đổi từ CCTV tương tự sang Video giám sát IP đang ở mức cao trào. Thực tế thì thị trường thế giới về các sản phẩm Video giám sát IP đã tăng 41.9% trong năm 2006, đã và đang phát triển mạnh mẽ nhiều năm tiếp theo. Doanh số toàn cầu các thiết bị Video giám sát (Camera, Ghi hình số nhúng, IP video Server) sẽ tăng đến 11.9 tỷ đô la vào năm 2011 so với năm 2006 là 6.6 tỷ đô la.

Tại sao lại có sự quan tâm ngày càng lớn về các hệ thống Video giám sát IP như vậy ? Đó là vì các hệ thống này có chất lượng cao và nhiều vượt trội về cắt giảm chi phí.


Các hệ thống Video giám sát IP cho phép ta đặt camera bất cứ chỗ nào trên mạng, như là máy tính hay một thiết bị mạng khác. Camera đã được nhúng các kết nối Ethernet tiêu chuẩn hay các công nghệ mạng không dây như 802.11 (a,b,g hay n).

Không cần đến phần cứng chuyên dụng phức tạp và các màn hình dùng riêng. Bạn có thể tăng tốc độ khung hình và bộ nhớ bất cứ lúc nào bằng thêm vào đĩa cứng tháo nắp được và máy chủ PC. Thâm nhập trực tuyến vào Camera có thể dùng bất cứ máy tính, laptop hay các thiết bị khác có quyền truy cập và được nối với Internet bằng dây hay không dây.

Nhiều hệ thống Video giám sát IP dễ dàng phân mức từ một đến vô hạn camera với mỗi mức là một camera, không nhẩy từ 4 đến 16 kênh như ta thường gặp trong thế giới ghi hình số (DVR).

Không cần phòng điều khiển ở mỗi nơi. Chức năng giám sát cho nhiều vùng ở xa có thể được tập chung ở một phòng điều khiển riêng. Điều này cho phép ta quản lý cấp cao việc giám sát với ít nhân viên.

Một lợi thế mấu chốt để chuyển sang Video giám sát IP là gần như bất cứ công ty hay tổ chức nào cũng đã có nhân viên chuyên trách được đào tạo cần thiết có thể lắp đặt công nghệ Video giám sát IP. Vì cơ sở của công nghệ này là phần cứng và phần mềm mạng IP nên đội ngũ kỹ thuật tin học có thể kiêm nhiệm lắp đặt vào bảo dưỡng. Ngoài ra, giao diện phần mềm quản lý IP Video rất dễ khai thác và vận hành bởi bất cứ cán bộ có chút ít kinh nghiệm với máy tính.

Tiếp cận từng bước
Nhiều người dùng video giám sát với công nghệ cũ CCTV tương tự (Analog closed Circuit TeleVision) mong muốn tiếp cận từng bước chuyển hướng sang dùng Video giám sát IP bằng áp dụng các hệ thống lai trong khi chờ cho các hệ thống tương tự đạt đến cuối đời sử dụng. Việc này rất dễ vì nhiều hệ thống quản lý Video giám sát IP như TAC Cyberstation, Pelco {kigiugikg}, Xprotect của Milestone hay {iuikb] của Genetec đều hỗ trợ tích hợp camera tương tự và hệ thống giám sát bằng các DVR. Điều này cho phép ta quản lý hệ thống bằng một nền phần mềm video giám sát duy nhất. Tính năng của các hệ thống này cho phép chúng ta thực hiện chuyển đổi dễ dàng. Một bất lợi khác của các thiết bị tương tự là các camera phải thu thập và truyền thông tin liên tục dẫn đến hậu quả chiếm kín băng thông. Để giải quyết vấn đề băng thông, các hệ thống Video giám sát IP có thể dùng công nghệ phân tích hình ảnh và các giải pháp theo nhu cầu.

Xu hướng 2: Thiết bị Video giám sát mạnh và thông minh
Nhiều camera mạnh: Trong khi phần lớn các camera giám sát đã được lắp đặt và đang dùng hiện nay là tương tự, thì sự thay đổi nhanh chóng cũng đang diễn ra. Theo nhà phân tích công nghiệp J.P. Freeman và Công ty thì việc kinh doanh Camera IP sẽ vượt tương tự vào năm 2008. Nguyên nhân thì rất nhiều.

Camera mạng IP cung cấp độ phân giải gấp 16 lần camera tương tự truyền thống. Vùng chúng kiểm soát được rộng hơn và khả năng phóng to - thu nhỏ số (digital zoom) tuyệt hảo. Thực tế camera IP ngày nay rất giầu tính năng cho phép ta đọc được biển số xe hay tên trên thẻ chứng minh.


Các camera liên tục được cải tiến và ngày càng tốt hơn. Tương lai sẽ có nhiều megapixel nhìn chi tiết hơn và các bộ mã hoá (Codec) video tốt hơn với công nghệ nén số liệu được cải tiến. Thí dụ codec mới là H.264. Bộ codec này cung cấp cùng chất lượng như MPEG-2 tai một phần ba đến một nửa tốc độ dữ liệu và gấp 4 lần độ lớn khung so với MPEG-4. Cho các hệ thống Giám sát IP, có nghĩa rằng các hình ảnh rõ hơn và giảm tải băng thông và yêu cầu bộ nhớ lưu trữ.

Đi đầu trong IP camera phải đề cập đến các 5 tên tuổi lớn như Axis, Sony, Panasonic, Mobotix và Pelco. Trong khi Axis và Mobotix chỉ tập chung vào IP camera thì các công ty khổng lồ như Pelco (USA) và Sony, Pansonic (Japan) cũng đã âm thầm biến chuyển mạnh từ sản phẩn truyền thống sang phát triển IP Camera. Hiện nay Mobotix chiếm đến 60% thị phần về IP Camera Megapixel, nhưng đang đứng trước thách thức cạnh tranh lớn bởi Sony ở dòng 1.3 Megapixel và đặc biệt là dòng IP Camera cao cấp Sirix của Pelco dự kiến được tung ra thị trường vào đầu năm 2009. Tương tự như vậy Pelco cũng đã từng làm lung lay vị trí dẫn đầu của Axis về IP camera tiêu chuẩn, khi họ tung ra sản phẩm IPcamera là IP110 (Fix IP dome) và Spectra IV (PTZ IP dome) trong hai năm vừa qua. Hiện nay Pelco đang tỏ ra sung sức sau khi sát nhập vào tập đoàn Schneider Electric (trong năm 2007), bên cạch việc cải tổ mạnh mẽ chiến lược kinh doanh toàn cầu, đã định vị nhanh vào hoàn thiện các giải pháp an ninh tích hợp và tiến hành thâm nhập vào thị trường iBMS cùng TAC. Sony và Panasonic có sản phẩm tốt song bị phụ thuộc vào kênh phân phối của các nhà sản xuất phần mềm quản lý Video hàng dầu như Milestone, Genetec vv nên họ chỉ tập chung vào các thị trường Video giám sát tiêu chuẩn, hoạt động độc lập. Quan sát trên thị trường Video giám sát IP đang bùng nổ liên quan đến các hệ thống an ninh tích hợp hay iBMS, không thấy sự quyết tâm chiến lược của các thương hiệu lớn như Siemens hay Johnson Control. Rất có thể họ chỉ là các nhà tích hợp hệ thống hay kinh doanh nhượng quyền mà không nắm giữ trong tay cơ sở sản xuất lớn hay tổ chức nghiên cứu phát triển độc lập.

Do IP đã trở thành động lực tăng trưởng toàn cầu cho Video an ninh trong vòng 5 đến 10 năm nữa, cho nên các nhà sản xuất camera cũng đã bắt đầu nhận thức nghiêm túc về giao diện tiêu chuẩn cho camera. Một tiêu chuẩn thống nhất giúp cho các nhà sản xuất camera không tốn thời gian phát triển giao diện ứng dụng (API) để kết nối trôi chẩy với các phần mềm của các nhà sản xuất khác. Đặc tả hệ thống phải hướng tới hỗ trợ tích hợp với Video giám sát tích hợp, điều khiển vào ra, cảm biến và cảnh báo.

Vào tháng 2/2008 liên minh giao diện an ninh (PSIA — Physical Security Interface Alliance) vật lý ra đời gồm Cisco, DVTel, GE, Honeywell, IqinVision, Panasonic, Pelco, Verint. Đến tháng 5 ba nhà sản xuất IP Camera có thị phần lớn là Axis, Bosch, Sony đã nhóm họp lập ra ONVIF (Open Network Interface Forum). Cả hai nhóm đang tăng cường xây dựng ảnh hưởng bắt đầu từ các hiệp hội an ninh. Mặc dù đã có nhiều hệ thống quản trị Video IP hiện hành, song đối với mỗi nhà sản xuất camera độc lập phải tạo ra API để tích hợp với chúng.

Đối với Axis, Bosch và Sony, thì việc ra đời ONVIF không chỉ hướng tới tạo lập một tiêu chuẩn tốt mà đằng sau đó là việc bảo vệ thị phần. Còn đối với PSIA thì tiêu chuẩn chung được nhìn rộng hơn vượt ra khỏi biên giới kết nối Video và muốn mang đến một nền tảng ứng dụng an ninh cho mọi thứ. PSIA nhìn ONVIF chỉ giới hạn về hoạt động tương tác Video và đang chỉ chích ONVIF như đỉnh của tảng băng chìm, trong đó tiêu chuẩn mà PSIA đang hướng tới phải bao quát nhiều hơn là chỉ có camera mà đang xem tiêu chuẩn IP thống nhất cho cả Video, DVR, phân tích, điều khiển vào ra và âm thanh. Hiện tại hai nhóm đang tiếp cận để tìm tiếng nói chung. Mô hình dữ liệu trên nền tiêu chuẩn SIA có lẽ là sự thoả hiệp để các bên cùng chiến thắng.

Thị trường hiện nay về IP camera là 700 triệu USD, nhưng đang phát triển sục sôi lên trên nhiều tỷ đô la trong ít năm tới. Đấu tranh cho tiêu chuẩn, chính là cuộc chuẩn bị tranh giành thị trường của 20 đến 40 tỷ đô la sau mười năm sau. Xem ra ONVIF đại diện bởi Axis và Sony đang tìm cách kiểm soát hoặc làm chậm quá trình thích nghi tiêu chuẩn, do hiện tại họ đang chiếm thị phần lớn về IP camera. Còn PSIA đứng đầu bởi Cisco và Pelco và các nhà sản xuất nhỏ khác như Honeywell, Panasonic vv đang cố gắng thúc đẩy tiến trình tiêu chuẩn hoá càng nhanh càng tốt, làm nền tảng cho việc tăng thêm thị phần. Đặc biệt với Cisco rất nhiệt huyết, quan tâm đến kinh doanh thiết bị mạng hơn Camera, mong muốn IP camera thành phổ thông và càng rẻ càng tốt. Lúc đó sản phẩm mạng của Cisco sẽ có chỗ đứng vững chắc và phát triển vượt bậc.

Nhiều camera thông minh
Camera ngày càng trở nên thông minh hơn ngoài việc có thể phát hiện chuyển động, còn có tác nhân chính là video phân tích. Với công nghệ này cho phép camera có thể nhận biết và bám các đối tượng. Camera có thể được lập trình với Video phân tích để nhận dạng súc vật hay người đang di chuyển vào khu vực cần giám sát. Chúng có thể nhận dạng được cả việc hai người đang ôm nhau âu yếm hay đánh nhau vật lộn. Chúng có thể xác định các danh trộm cắp trong cửa hàng, như lấy cả lô trong một mục mua hàng. Chúng cũng có thể nhận dạng một người nào đó đang giữ thẻ tín dụng hay đang rút súng. Thật sự không có giới hạn về việc Video phân tích có thể “nhìn” và phản ứng. Trong thực tế bằng trí khôn nhân tạo, sắp tới có thể camera quan sát cả tháng một bối cảnh nào đó và cảm nhận bình thường hay không bình thường và phản ứng phù hợp.

Tất nhiên trong trường hợp như thế này Camera là một phần của máy tính, được hiểu là Camera mạng IP.




Một lý do Video phân tích (và camera mạng IP) cất cánh trong những năm qua vì chúng cung cấp sự bổ sung cho đội ngũ bảo vệ để quan sát màn hình hàng tiếng đồng hồ đến cả ngày. Đội ngũ an ninh sẽ trở nên hiệu quả hơn nếu camera làm nhiệm vụ quan sát còn những người gác giữ sàn và sãn sàng hành động. Cảnh báo từ camera có thể gửi đến bảo vệ theo điện thoại bàn hay thiết bị cầm tay.
Nhiều loại Video phân tích như nhận dạng mặt, đếm người để điều khiển đám đông, tự động phóng to để đọc biển xe đã trở thành thương phẩm. Điểm mới ở đây là video phân tích đã ra khỏi “khoa học kinh nghiệm” để trở thành công cụ nghiêm túc dùng cho nhiều tổ chức trên thế giới.

Trí tuệ chuyển xuống vùng ngoại vi
Video phân tích thương phẩm bắt đầu là công nghệ chạy trên Server gắn liền với Camera. Việc có nhiều tính năng Video phân tích tích hợp sẵn trong camera mang lại nhiều ý nghĩa hơn. Chúng đưa trí tuệ ra vùng biên của mạng nhiều hơn ở vùng tâm. Bằng con đường này ta không cần phải cấp video từ hàng trăm camera vào trung tâm dữ liệu để phân tích và làm quá tải băng thông và nhiều máy chủ. Với phân tích ở ngoại vi, một máy chủ có thể xử lý được nhiều camera. Trên thực tế mỗi camera hoạt động như có máy chủ riêng. Trong nhiều cài đặt camera được lập trình để ghi một cách liên tục, nhưng chỉ lưu dữ liệu trước khi, trong và sau khi một sự kiện. Video có thể được truyền về máy chủ trung tâm để lưu trữ an toàn. Vận chuyển chi những Video nào thuộc loại quan tâm sẽ giảm cả hai yêu cầu về vận chuyển qua mang và bộ nhớ dữ liệu.

Những lợi thế về việc đẩy phân tích ra ngoại vi còn bao gồm cả khả năng thu nhận và phân tích hình ảnh phân giải cao tại nguồn và giảm các cảnh báo sai làm mất thời gian. Vì không cần tải liên tục Video về máy chủ, chúng ta có thể triển khai các camera chất lượng cao hơn. Những camera có chất lượng cao cho phép video phân tích tốt hơn tại nguồn. Kết quả là ít hơn các cảnh báo sai băng việc nhận dạng chính xác sự cố.

Cánh cửa rộng mở cho trắc sinh học (biometrics)
Trắc sinh học là phương pháp nhận dạng làm việc bằng đo các đặc tính thống nhất của con người để nhận dạng. Thí dụ như vân tay hay quét nồng tử, kiểm tra chữ ký động, nhận biết khuôn mặt. Tương lai của trắc sinh học lưu giữ hy vọng cho các ứng dụng thi hành pháp luật và cả các ứng dụng công nghiệp tư nhân. Bằng việc đo hình học khuôn mặt, các hệ thống video giám sát có thể nhận dạng các đặc điểm sai khác với những gì đã lưu trong cơ sở dữ liệu an ninh.
Các sản phẩm trắc sinh học không còn là khoa học viễn tưởng nữa. Thực tế cho thấy rằng chúng là một bộ phận quan trọng trong ngành công nghiệp an ninh. Trắc sinh học sẽ cung cấp anh ninh tuỵệt vời tại cửa kiểm tra, bảo vệ chống đột nhập xe hơi, máy tính và trạm điện thoại và cho phép các cổng không cần gác mà vẫn nhận dạng được tất cả mọi người đến và đi.

Sắp tới các hệ thống nhận dạng mặt người sẽ ra đời, chúng dùng camera giám sát nguỵ trang để theo dõi ở cửa ra vào toà nhà. Những hệ thống này nhận dạng chính xác ngay những đặc điểm tiểm tàng hay khủng bố khi so với hàng triệu bức ảnh trong cở sở dữ liệu ít hơn một giây. Cảnh báo được gửi đến cán bộ an ninh tức thời.
Tích hợp với hệ thống thẻ ra vào đã là một thực tế. Thay vì nhân viên bảo vệ phải chịu trách nhiệm so sánh khuôn mặt với thẻ chứng minh thư đã được quét, thì camera giám sát thực hiện việc này.

Quản lý tốt hơn
Xu hướng phần mềm quản lý video giám sát là cung cấp một giải pháp tổng thể cho phép quản lý động các camera từ bất cứ đâu trên mạng và đưa đến cho người quyết định hay các thiết bị (như điện thoại hat PDA) các báo động, cảnh báo và các video liên quan. Việc này giải phóng sức mạnh phối hợp hành động hiệu quả và phản ứng kịp thời với các tình trạng khẩn cấp.

Phần mềm quản lý video giám sát của Pelco hay của Milestone cung cấp nhiều tính năng tiên tiến như:
Khả năng hỗ trợ không giới hạn camera, thiết bị, ngưòi dùng và máy chủ.
Điều khiển hoạt động cả ngày từ một giao diện đơn. Các camera, các thiết bị và người dùng có thể được quản lý từng nhóm, loại bỏ nhiều thao tác lập lại tốn kém thời gian.
Giao diện trực quan đơn giản hoá cấu hình và quản lý các lắp đặt lớn và phức tạp.

Related Posts by Categories


2 nhận xét: